Xưởng sản xuất: 632 Kim Giang, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, Hà Nội,

PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA VIỆT NAM

Đăng bởi In 3 Miền | 18/07/2017 | 0 bình luận
PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA VIỆT NAM

Ngày cưới là ngày vô cùng trọng đại và thiêng liêng đối với mỗi đôi uyên ương, là ngọn nguồn, là cội rễ của đời sống lứa đôi hạnh phúc, vì vậy nhất thiết phải được sự đồng ý của đôi bên cha mẹ  (và của chính quyền địa phương), đồng thời việc hiểu và nắm rõ nghi thức cưới hỏi cũng vô cùng quan trọng. Song hành với việc phát triển mọi mặt của xã hội, phong tục và nghi thức cưới hỏi của người Việt cũng có thay đổi. Tuy nhiên, những nghi thức cơ bản của lễ cưới hỏi truyền thống vẫn được gìn giữ và phát huy bao gồm: Lễ Chạm Ngõ (Dạm ngõ), Lễ Ăn Hỏi, và Lễ Đón Dâu (Lễ Cưới Hỏi).

  1. LỄ CHẠM NGÕ (LỄ DẠM NGÕ)

Lễ chạm ngõ là được ví như lễ ra mắt giữa nhà trai và nhà gái cho hai bên được phép tìm hiểu nhau trước khi đi đến hôn nhân. Nhưng trên thực tế, đây là một cách để hai bên gia đình hiểu nhau (về gia cảnh, gia phong) và thân thiết hơn, vì vậy trước khi chạm ngõ, nhà trai cũng phải chọn ngày đẹp để đến gặp gia đình nhà gái cho “Thuận buồm xuôi gió” suôn sẻ thì mọi việc tiếp theo mới trọn vẹn. Lễ vật trong ngày chạm ngõ không cần rườm rà, đơn giản là Trầu Cau một số nơi có thêm chè thuốc, kẹo với số lượng chẵn. Hai bên gia đình nói chuyện để bàn chuyện xem ngày, chọn ngày và các thủ tục khác cho lễ ăn hỏi và lễ cưới. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem như đã có nơi có chốn, bước đầu để chuẩn bị tiến tới hôn nhân.

  1. LỄ ĂN HỎI

Sau lễ chạm ngõ là đến lễ ăn hỏi, có thể nói lễ ăn hỏi là một thông báo chính thức về sự kết giao hứa gả của hai gia đình và hai họ. Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành cô dâu tương lai của chàng trai đi hỏi. Ngày nay, về hình thức lễ này vẫn giữ tên là lễ ăn hỏi, nhưng trên thực tế, nó đã bao hàm cả lễ dẫn cưới. Chính vì thế, mô hình lễ ăn hỏi ngày nay phải phản ánh được sự thay đổi ấy, nói cách khác, trong các nghi thức ở lễ ăn hỏi ngày nay phải có cả những nghi thức của lễ dẫn cưới.

Lễ vật của lễ ăn hỏi là tráp ăn hỏi. Tráp ăn hỏi thường là số lẻ 5, 7, 9 hoặc 11 tráp, và số đồ lễ thì phải là số chẵn. Đồ lễ ăn hỏi thường có là bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá… và có thêm xôi, lợn quay – những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền.

Ý nghĩa của lễ vật dẫn cưới có thể hiểu là để thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được thêm người, còn nhà gái thì ngược lại. Mặt khác, lễ vật cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cô dâu tương lai. Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện được thiện ý của nhà trai: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí xung quanh hôn sự. Đồ lễ ăn hỏi được nhà gái lấy một ít và trầu cau mang lên thắp hương trên bàn thờ tổ tiên. Ngoài ra, nhà gái giữ lại thường là 2 phần và đưa trả lại nhà trai 1 phần. Đồ lễ nhà gái giữ lại được dùng để mời cưới. Điều đặc biệt cần lưu ý trong lễ ăn hỏi là nhà trai phải chuẩn bị 3 phong bì đựng tiền (gọi là lễ đen), một phong bì dành cho nhà nội cô dâu, một phong bì dành cho nhà ngoại cô dâu và phong bì còn lại để thắp hương trên bàn thờ nhà cô dâu. Số tiền tùy thuộc vào nhà gái.

Cuối cùng, cô dâu và chú rể ra mắt hai họ, rót nước, mời trầu các vị quan khách. Thời gian ăn hỏi và lễ cưới cách nhau 3 ngày, 1 tuần, lâu hơn hay sớm hơn tùy vào việc lựa chọn ngày đẹp của hai bên gia đình.

  1. LỄ ĐÓN DÂU (LỄ CƯỚI HỎI)

Lễ cưới là đỉnh điểm của cả quy trình tiến tới hôn nhân, là hình thức liên hoan, báo hỉ mừng cô dâu, chú rể, mừng hai gia đình, nên có ý nghĩa rất thiêng liêng. Do đó, cả xưa và nay, mọi người đều rất coi trọng. Đây cũng chính là nghi lễ được dư luận xã hội quan tâm nhiều hơn cả. Lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Trước đây, người ta gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường ngày, người ta gọi lễ này là lễ cưới (dịch theo tiếng Hán là hôn lễ). Ý nghĩa của lễ này là: Công bố sự thành hôn của đôi trai gái (còn được gọi là lễ Thành hôn).

Lễ cưới bao gồm các nghi thức sau:

  • Lễ xin dâu: Trước giờ đón dâu, mẹ chú rể sẽ cùng một người thân trong gia đình đến nhà gái đem cơi trầu, chai rượu ( hay còn gọi là tráp xin dâu) để báo trước giờ đoàn đón dâu sẽ đến, nhà gái yên tâm chuẩn bị đón tiếp. 
  • Lễ rước dâu: Trong ngày giờ đẹp đã được chọn sẵn, chú rể sẽ cùng bố và đại diện nhà trai tới nhà gái, mang theo xe hoa, hoa cưới để đón cô dâu về nhà. Cô dâu sẽ được trang điểm, mặc lễ phục phù hợp với chú rể. Nhà trai và nhà gái giới thiệu thành phần tham dự, sau đó nhà trai trao trầu xin dâu cho nhà gái, xin phép cho chú rể lên phòng đón cô dâu. Cô dâu chú rể làm lễ gia tiên tại nhà gái. Thông thường, đi đầu là đại diện nhà trai (là người khéo ăn, khéo nói, có vị thế xã hội); tiếp đến là bố chú rể, chú rể và bạn bè (ở Việt Nam, mẹ chồng thường không đi cùng để đón con dâu tuy nhiên ở một số nơi vẫn có tục Cha đưa Mẹ đón).
  • Sau cùng nhà trai xin phép được đưa cô dâu mới về nhà chồng. Đại diện nhà gái cũng phát biểu đồng ý cho nhà trai đón cô dâu. Khi cô dâu về nhà chồng, lễ gia tiên cũng được thực hiện ở nhà trai. Chính lúc này người con gái đã được nhận vào làm thành viên trong gia đình của người con trai. Cha mẹ chồng sẽ nhận con dâu, và chúc phúc cho 2 con. Sau đó, lễ cưới sẽ được tổ chức tại nhà trai với các bài phát biểu của hai bên đại diện gia đình, trao quà và tiệc mặn hoặc ngọt cùng các chương trình biểu diễn văn nghệ góp vui. Ngoài ra, sau lễ cưới, cô dâu chú rể phải thực hiện lễ lại mặt. Thời gian đôi vợ chồng mới cưới về lại mặt nhà gái thường là ngay sau ngày cưới. Tuy nhiên, thời gian này còn tùy thuộc vào điều kiện công việc của cô dâu chú rể và khoảng cách địa lý giữa hai nhà. Thông thường, cô dâu chú rể về nhà ngoại tiến hành nghi lễ này vào buổi sáng. Đồ lễ gia đình nhà trai chuẩn bị là gà trống và gạo nếp hoặc đơn giản hơn là bánh kẹo, rượu thuốc để đôi vợ chồng trẻ mang về nhà ngoại. Và cô dâu chú rể sẽ ở lại ăn cơm cùng bố mẹ vợ.
  • Lễ lại mặt vẫn là một trong lễ quan trọng thể hiện ý nghĩa như lời nhắc nhở đôi vợ chồng mới cưới về chữ hiếu không chỉ với nhà chồng mà cũng phải quan tâm, chăm sóc tới gia đình nhà vợ. Ngoài ra còn thể hiện sự chu đáo, quan tâm của gia đình nhà trai và chú rể với gia đình nhà gái, tạo sự gắn bó, thân mật giữa hai nhà.

Các nghi lễ đám cưới được tổ chức trang trọng và nghiêm trang vừa là sự công nhân chính thức để đôi trai gái nên duyên vợ chồng, nó là mối dây liên kết , là dấu mốc nhắc nhở cho 2 người luôn yêu thương trân trọng nhau suốt đời.

(Via St)

 

 


 

VIẾT BÌNH LUẬN CỦA BẠN:
popup

Số lượng:

Tổng tiền: